Chuyên đề Tiếng Anh_ Sinh hoạt cụm vùng A

Ngày đăng: Lượt xem:

Chuyên đề:
VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC
VÀO TIẾT DẠY SKILLS 1

A. MỞ ĐẦU:

I. Lý do chọn đề tài :
Cùng với việc đổi mới phương pháp giảng dạy học trong trường học, thì việc thay đổi phương pháp dạy học theo hướng lấy học sinh làm vai trò trung tâm là nội dung cơ bản và quan trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy học môn tiếng Anh. Lấy học sinh làm trung tâm không tập trung vào việc đánh giá giờ học, xếp loại giáo viên mà nhằm khuyến khích giáo viên tìm ra nguyên nhân tại sao học sinh chưa đạt kết quả như mong muốn và có biện pháp để nâng cao chất lượng dạy học.
Đề tài này cũng đang là vấn đề cần bàn luận cho nhu cầu cần thiết của việc đổi mới phương pháp dạy học . Đồng thời là tìm ra hướng cải thiện việc học của học sinh thông qua việc phân loại học sinh,tổ chức sắp xếp các hoạt động dạy- học trong 1 tiết học như thế nào để học sinh có hứng thú với việc học và đạt kết quả học tập tốt. Đây cũng chính là lý do nhóm Tiếng Anh trường THCS Tây Sơn chọn đề tài “VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC
VÀO TIẾT DẠY SKILLS 1”.
II. Đối tượng nghiên cứu:
Nhóm Giáo viên tiếng Anh chúng tôi đã thực hiện việc nghiên cứu đề tài cho các đối tượng học sinh ở các khối lớp nhằm cố gắng giúp các em ngày càng yêu thích môn học này và không cảm thấy môn học này là quá khó nữa. Trong đó có lớp 7/1 là lớp học tương đối đồng đều hơn nên chúng tôi chọn lớp 7/1 làm thí điểm nghiên cứu nhiều nhất.
III.Phương pháp nghiên cứu:
Chúng tôi đã tìm tòi nghiên cứu nhiều tài liệu về phương pháp dạy học,chúng tôi cũng đã tiến hành đi thao giảng và dự giờ nhiều môn học khác nhau để tìm ra điểm khác và giống giữa các bộ môn và đã tìm ra hướng dạy học lấy học sinh làm trung tâm là phương pháp dạy học hiệu quả nhất đối với các bộ môn, đặc biệt là bộ môn Tiếng Anh .
IV.Phạm vi áp dụng
Áp dụng cho tất cả học sinh ở tất cả các khối lớp trong trường THCS Tây Sơn.

B. NỘI DUNG CHÍNH:

I. CƠ SỞ THỰC TIỄN VÀ THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ:
Như chúng ta đã biết, xã hội ngày càng phát triển và khuynh hướng toàn cầu hóa đang lan rộng thì nhu cầu học tiếng Anh, ngôn ngữ được sử dụng như ngôn ngữ chung trên toàn thế giới, là rất to lớn. Có người học tiếng Anh vì công việc, có người học tiếng Anh để chuẩn bị cho việc du học, có người học tiếng Anh chỉ vì muốn kết bạn, nhưng dù vì mục đích gì thì ta không thể phủ nhận là ngày càng có nhiều người muốn học tiếng Anh.
Cùng với chương trình đổi mới sách giáo khoa mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đã biên soạn cho phù hợp hơn với mục đích của người học. Trong chương trình tiếng Anh dành cho THCS được biên soạn theo từng chủ điểm, các chủ điểm được biên soạn theo từng kỹ năng: nghe, nói, đọc và viết nhằm tạo điều kiện cho học sinh có sự hiểu biết khái quát về văn hóa của các nước sử dụng tiếng Anh và đồng thời rèn luyện sâu hơn từng kỹ năng cơ bản này.
Cùng với yêu cầu chung của Phòng Giáo dục và Đào tạo Đại Lộc, tất cả học sinh của các khối lớp trường THCS Tây Sơn trong năm học 2018-2019 đồng loạt học theo chương trình sách Tiếng Anh đổi mới. Tuy trường nằm trên địa bàn xã khó khăn, học sinh ít tiếp cận với phương tiện hiện đại so với các trường bạn, nhưng thầy và trò cùng cố gắng đổi mới, vận dụng mọi phương pháp trong dạy và học để cùng đuổi kịp với xu thế chung.

II. QUAN ĐIỂM ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
1/. Mục tiêu của việc vận dụng PPDH theo hướng tích cực.
Mục tiêu giáo dục hiện nay đang tập trung hướng vào việc phát triển tính năng động, sáng tạo và tích cực của học sinh nhằm tạo khả năng nhận biết và giải quyết vấn đề cho các em. Để đạt được mục tiêu này việc thay đổi PPDH theo hướng coi trọng người học, coi học sinh là chủ thể hoạt động, khuyến khích các hoạt động học tập tích cực, chủ động, sáng tạo của các em trong quá trinh dạy học là rất cần thiết.
Trong dạy học ngoại ngữ, quan điểm này càng đúng vì không ai có thể thay thế người học trong việc nắm các phương tiện ngoại ngữ và sử dụng chúng trong hoạt động giao tiếp bằng chính năng lực giao tiếp của các em, PPDH ngoại ngữ chọn giao tiếp là phương hướng chủ đạo, năng lực giao tiếp (communicative competences) là đơn vị dạy học cơ bản, coi giao tiếp vừa là mục đích vừa là phương tiện dạy học (dạy học trong giao tiếp, bằng giao tiếp và để giao tiếp). PPDH này sẽ phát huy tốt nhất vai trò chủ thể, chủ động tích cực của học sinh trong việc rèn luyện kỹ năng ngôn ngữ vì những mục đích thực tiễn và sáng tạo. Học sinh cần phải được trang bị cách thức học tiếng Anh và ý thức tự học tập, rèn luyện. Người học là chủ thể, nếu không biết cách tự học thì sẽ không thể nắm vững tiếng nước ngoài.
Đổi mới PPDH là quá trình chuyển từ thầy thuyết trình, phân tích ngôn ngữ-trò nghe và ghi chép thành PPDH mới, trong đó thầy là người tổ chức, giúp đỡ hoạt động của học sinh, còn học sinh là người chủ động tham gia vào quá trình hoạt động học tập.
Tiêu chí cơ bản của PPDH mới là hoạt động tự lập, tích cực, chủ động của học sinh trong việc giải quyết các nhiệm vụ giao tiếp bằng ngôn ngữ. Tiêu chí chủ yếu để đánh giá kết quả học tập của học sinh là năng lực giao tiếp, năng lực ứng xử bằng ngôn ngữ trong các tình huống giao tiếp cụ thể.

2. Bản chất của tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh trong dạy học ngoại ngữ
– Những biểu hiện tích cực đặc trưng của học sinh trong hoạt động học tập bộ môn ngoại ngữ được thực hiện ở những mặt chủ yếu sau:

– Học sinh có nhu cầu tiếp thu kiến thức, kĩ năng, vận dụng kĩ năng để giao tiếp, hứng thú làm việc với các tài liệu học tập.
– Từ chỗ có nhu cầu tiếp thu kiến thức, rèn luyện và vận dụng kĩ năng trong giao tiếp, học sinh sẽ tự giác học tập, chủ động huy động vốn kinh nghiệm đã tích lũy (vốn từ, quy tắc ngữ pháp,…) để bắt chước, tái hiện, tìm tòi cách ứng xử và ứng xử sáng tạo trong các tình huống giao tiếp.
– Học sinh chủ động lựa chọn kiến thức và thao tác tư duy thích hợp để có những ứng xử ngôn ngữ cần thiết, phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp.
– Học sinh biết bộc lộ nhận thức và sự hiểu biết của mình ra bên ngoài bằng lời nói, bài viết thông qua ngoại ngữ.
– Học sinh biết cách làm việc theo cặp, theo nhóm, hợp tác với bạn khi cần thiết trong quá trình luyện tập ngôn ngữ theo yêu cầu và nhiệm vụ của thầy giao.
– Học sinh biết cách tự học, biết chủ động trình bày những ý định của mình thông qua giao tiếp nói hoặc viết.
– Trên đây là một số nét biểu hiện chính của PPDH mới. Đây cũng chính là những năng lực và phẩm chất mà người giáo viên cần phải hình thành và phát triển ở học sinh trong quá trình học tập ngoại ngữ.

3. Những căn cứ của đổi mới PPDH ngoại ngữ

Đổi mới PPDH cần phải căn cứ vào đặc điểm của môn ngoại ngữ và đặc điểm tâm sinh lí của học sinh.
3.1 Căn cứ vào đặc điểm môn ngoại ngữ nói chung:
– Quan điểm giao tiếp là quan điểm đặc thù của môn ngoại ngữ trong nhà trường.
– Quan điểm giao tiếp quy định “tính giao tiếp” của hoạt động dạy học ngoại ngữ.
– Môn ngoại ngữ đòi hỏi nhận thức và giải quyết hợp lí mối quan hệ giữa kiến thức ngôn ngữ và kĩ năng ngôn ngữ – hai thành tố chủ yếu của nội dung dạy học. – Kĩ năng là trung tâm, là mục đích cuối cùng của quá trình dạy. Kiến thức là điều kiện, là phương tiện, là nền tảng. Chỉ có kiến thức mà không có kĩ năng thì không có khả năng giao tiếp, ngược lại chỉ có kĩ năng mà không có kiến thức thì khả năng giao tiếp bị hạn chế và không phát triển được. Dạy học ngoại ngữ thực chất là hoạt động rèn luyện năng lực giao tiếp dưới các dạng: nghe, nói, đọc, viết. Muốn rèn luyện được năng lực giao tiếp cần có môi trường với những tình huống đa dạng của cuộc sống. Môi trường này chủ yếu do giáo viên tạo ra dưới dạng những tình huống giao tiếp và HS phải tìm cách ứng xử bằng ngoại ngữ cho phù hợp với từng tình huống giao tiếp cụ thể.
Học ngoại ngữ HS đồng thời tiếp cận với đất nước, nền văn hóa xa lạ. Mức độ tiếp cận thông tin càng cao thì việc dạy học càng thuận lợi. Điều này đòi hỏi nhiều thiết bị dạy học (nghe – nhìn, nghe – nói ) và nhiều hình thức dạy học linh hoạt. Mục đích của việc dạy học ngoại ngữ không nhằm hướng HS vào việc nghiên cứu hệ thống ngôn ngữ, mà nhằm giúp các em sử dụng hệ thống ngôn ngữ đó như một công cụ giao tiếp, nghĩa là nhằm rèn luyện cho HS năng lực giao tiếp.
Năng lực giao tiếp này được biểu hiện bằng khả năng sử dụng sáng tạo những qui tắc ngôn ngữ để thực hiện giao tiếp theo tình huống.
Như vậy, mục đích cuối cùng của việc học ngoại ngữ không phải là biết hệ thống ngữ âm, từ vựng, mà là biết sử dụng hệ thống đó để đạt được mục đích giao tiếp.
3.2. Căn cứ vào đặc điểm tâm sinh lý của HS:
Khi học ngoại ngữ, HS Trung học cơ sở có nhiều điểm khác với HS Tiểu học ở những mặt sau:
Suy nghĩ nhanh nhạy trong nhận thức kiến thức ngôn ngữ (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp).
Khả năng tưởng tượng linh hoạt, logic hơn, nhất là dễ dàng liên tưởng và so sánh sự giống nhau và khác nhau giữa ngoại ngữ với tiếng mẹ đẻ.
Khả năng ghi nhớ, tái hiện các mẫu lời nói và khả năng diễn đạt bằng ngoại ngữ (Tiếng Anh) lưu loát và bền vững hơn, phản xạ ngôn ngữ nhanh.
Rất hứng thú và tích cực trong hoạt động học tập, phát triển kỹ năng ngôn ngữ, nhất là hai kỹ năng nghe và nói, nhưng cũng rất dễ chán nản trong việc luyện tập phát triển các kỹ năng phức tạp như kỹ năng đọc hiểu, vì gặp nhiều từ mới, trừu tượng và khó đoán nghĩa; hoặc như kỹ năng viết vì cảm thấy khó diễn đạt suy nghĩ, ý tưởng cá nhân bằng ngôn ngữ viết.
Nhìn chung học sinh THCS tuy hào hứng, có ý thức muốn nắm bắt và sử dụng được ngoại ngữ nhưng khả năng độc lập trong học tập chưa tốt ( Ví dụ: còn rụt rè, không tự tin và sợ mắc lỗi trong khi nói). HS ít có cơ hội để luyện tập, hơn nữa lại thiếu kiên trì trong rèn luyện phát triển kỹ năng ngôn ngữ nên kết quả học tập thường bị hạn chế, dễ nản chí và bỏ cuộc. Vì các em cần phải thường xuyên được sự khuyến khích, động viên kịp thời của GV, và đặc biệt cần có sự hỗ trợ của các phương pháp dạy học thích hợp để củng cố, ổn định và nâng cao hiệu quả học tập ngoại ngữ của các em.

III. Giải pháp đổi mới PPDH tiếng Anh ở trường THCS
PPDH tiếng Anh theo định hướng tích cực hoá hoạt động học tập:
Ngày nay, người ta đặc biệt quan tâm tới việc áp dụng phương pháp Giao tiếp vào quá trình giảng dạy tiếng Anh. Giáo viên luôn luôn coi trọng việc hình thành và ưu tiên phát triển các kĩ năng giao tiếp (nghe, nói, đọc và viết). Đồng thời, việc cung cấp kiến thức ngôn ngữ (ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp) là quan trọng, góp phần hình thành và phát triển các kĩ năng giao tiếp. Chính vì vậy, phương pháp giao tiếp, ở chừng mực nhất định, đã phát huy được ưu điểm của nó, thực sự giúp cho học sinh có khả năng sử dụng được tiếng Anh để giao tiếp.
Việc áp dụng phương pháp giao tiếp (có sự kết hợp với các phương pháp dạy học khác ). Trong quá trình giảng dạy Tiếng Anh ở THCS được thực hiện như sau: Cả 4 kỹ năng ngôn ngữ ( nghe – nói – đọc – viết) đều được quan tâm và được phối hợp trong các bài tập và các hoạt động trên lớp. Kỹ năng nghe luôn được sử dụng ( phối hợp với kỹ năng đọc ) để giới thiệu ngữ liệu hoặc nội dung bài học mới. Ngoài kỹ năng nghe còn được rèn luyện từng bước thông qua các bài tập nghe khác nhau như nghe lấy ý chính, nghe hiểu các thông tin chi tiết, để đoán nghĩa qua ngữ cảnh…
Kỹ năng nói được dạy phối hợp với ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng, chức năng ngôn ngữ và với các kỹ năng khác, thông qua các bài hội thoại/ mẫu hội thoại ngắn hoặc các nội dung chủ điểm của bài.
Kỹ năng đọc, ngoài ý nghĩa được sử dụng làm phương tiện giới thiệu nội dung và ngôn ngữ mới, còn được phát triển thông qua các bài tập đọc có mục đích khác nhau như đọc hiểu nội dung chi tiết, đọc lướt, đọc lấy ý chính, đọc tìm thông tin cần thiết,…với các loại bài khóa có văn phong khác nhau như văn bản viết, văn bản nói, bài hội thoại, bài văn xuôi, bài văn vần, quảng cáo, bảng biểu, mẫu khai…
Kỹ năng viết cơ bản được dùng để củng cố vốn ngữ liệu đã được học. Ngoài ra còn có những bài tập dạy viết có mục đích như viết thư cá nhân, điền các mẫu khai, viết báo cáo ở dạng đơn giản, viết một đoạn văn ngắn có gợi ý, dựa vào bài đã học về một chủ điểm, hay bày tỏ quan điểm về một nhận định hoặc ý kiến đưa ra.
Ngữ liệu mới được giới thiệu theo chủ điểm và thông qua hoạt động nghe và đọc, sau đó được luyện tập thông qua cả 4 kỹ năng. Có nghĩa là sẽ không có các mục dạy tách biệt cho ngữ âm, ngữ pháp hay từ vựng trong từng bài học mà các yếu tố ngôn ngữ sẽ được dạy lồng ghép với nhau và phối hợp với việc phát triển các kỹ năng. Cụ thể là:
Ngữ pháp được xuất hiện theo chủ đề và tình huống của bài học được luyện tập trong ngữ cảnh, sau đó được chốt lại một cách có hệ thống sau một số bài học và ở cuối sách giáo khoa. Các bài tập chuyên sâu về hình thái, cấu trúc ngữ pháp sẽ được luyện tập cách có hệ thống trong sách bài tập kèm theo sách giáo khoa.
Từ vựng cũng được xuất hiện tự nhiên theo các chủ đề để nhằm đạt được mức độ ngữ cảnh hóa cao, giúp HS dễ tiếp thu và nhớ lâu. Các bài tập sử dụng từ vựng thường được phối hợp với các bài tập ngữ pháp và các bài tập nghe, nói, đọc, viết.
Ngữ âm được xem là một bộ phận mật thiết gắn liền với hoạt động lời nói, được dạy và luyện tập gắn liền với việc dạy từ mới, dạy ngữ pháp, dạy nghe và dạy nói. Hệ thống các bài tập và hoạt động dạy học được thiết kế theo trình tự dạy học đi từ giới thiệu ngữ liệu, luyện tập có hướng dẫn đến vận dụng.
Các bài tập và hoạt động dạy học chú trọng khuyến khích HS áp dụng ngữ liệu đang học với các kiến thức có sẵn để diễn đạt các nội dung khác nhau trong chính đời sống thực tế của các em. Hệ thống bài tập đặc biệt chú trọng trong những nguyên tắc dạy học cơ bản trong quan điểm dạy học giao tiếp để biên soạn các loại hình bài tập như nguyên tắc chuyển đổi thông tin ( information transfer), nguyên tắc tạo khoảng trống thông tin (information gap), hay nguyên tắc cá thể hóa (personalization), nhằm không những giúp HS nắm được hệ thống cấu trúc ngữ pháp mà còn biết ứng dụng để diễn đạt các nội dung giao tiếp trong các tình huống cụ thể trong đời sống thật của HS.

IV. MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP TRONG DẠY HỌC TÍCH CỰC
1. Phương pháp vấn đáp
Vấn đáp ( đàm thoại ) là phương pháp trong đó giáo viên đặt ra câu hỏi để học sinh trả lời, hoặc học sinh có thể tranh luận với nhau và với cả giáo viên; qua đó học sinh lĩnh hội được nội dung bài học.
2.. Phương pháp đặt và giải quyết vấn đề.
– Đặt vấn đề, xây dựng trên cơ sở nhận thức
+ Tạo tình huống có vấn đề;
+ Phát hiện, nhận dạng vấn đề nảy sinh;
+ Phát hiện vấn đề cần giải quyết
– Giải quyết vấn đề đặt ra
+ Đề xuất cách giải quyết;
+ Lập kế hoạch giải quyết;
+ Thực hiện kế hoạch giải quyết.
3. Phương pháp hoạt động nhóm
Lớp học được chia thành từng nhóm nhỏ từ 4 đến 6 người. Tuỳ mục đích, yêu cầu của vấn đề học tập, các nhóm được phân chia ngẫu nhiên hay có chủ định, được duy trì ổn định hay thay đổi trong từng phần của tiết học, được giao cùng một nhiệm vụ hay những nhiệm vụ khác nhau.
4. Phương pháp đóng vai
Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định.
5. Phương pháp động não
Động não là phương pháp giúp học sinh trong một thời gian ngắn nảy sinh được nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một vấn đề nào đó.

6. Kĩ thuật “khăn trải bàn”?
Là hình thức tổ chức hoạt động mang tính hợp tác kết hợp giữa hoạt động cá nhân và hoạt động nhóm nhằm:
– Kích thích, thúc đẩy sự tham gia tích cực
– Tăng cường tính độc lập, trách nhiệm của cá nhân HS

V. MỘT SỐ TRÒ CHƠI ÁP DỤNG CHO CÁC TIẾT HỌC:
1. Shark attack.
2. Pelmanism Pel.
3. KIM’S GAME .
4. Guessing game .
5. Noughts and crosses .
6. Hang man
7. bingo.
8. “ bet on “ games.
9. LUCKY NUMBER
10. TIC-TAC-TOE
……………………………………………
Kinh nghiệm tổ chức trò chơi ngôn ngữ
Các trò chơi nói trên giúp học sinh vừa chơi, vừa học không chỉ ở trên lớp mà còn ở mọi nơi, mọi chỗ, đồng thời vừa ôn luyện từ vựng hiệu quả. Các trò chơi thu hút học sinh tham gia bài học, đặc biệt là các bài đọc hiểu, hội thoại để giới thiệu chủ đề. Ngoài ra, có thể áp dụng trong các chương trình ngoại khóa, câu lạc bộ tiếng Anh, hoặc khuyến khích học sinh luyện tập theo nhóm. Các trò chơi cũng rèn luyện cho các em khả năng phán đoán, sáng tạo, rèn luyện sự phản xạ nhanh nhạy, dứt khoát, tính tự tin, tạo không khí vui tươi, thân mật.

BÀI DẠY MINH HỌA: TIẾNG ANH LỚP 7 MỚI -UNIT 4: SKILLS 1

C. KẾT LUẬN

Bộ môn Tiếng Anh cũng như các bộ môn khác, việc vận dụng PPDH tích cực lấy người học làm trung tâm là điều rất cần thiết. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện và áp dụng cho từng đối tượng HS khác nhau. Mức tiếp cận với các phương tiện, thực hiện các kĩ năng, việc nắm bắt nội dung kiến thức…cũng có những cấp độ khác nhau đặc biệt là HS của vùng khó khăn như trường THCS Tây Sơn. Các em không có điều kiện tìm học thêm trên mạng Internet, hay sử dụng màn hình thông minh…như HS một số trường bạn, nên phần nào cũng ảnh hưởng đến sự hứng thú trong học tập của các em.

Trong quá trình thực hiện chuyên đề này có sử dụng một số phương pháp quen thuộc, một số trò chơi… trong tiết học mà nhiều giáo viên cũng đã áp dụng tuy nhiên ngôn ngữ đóng vai trò rất quan trọng trong việc ghi nhớ từ vựng, ghi nhớ cấu trúc câu và thực hành chúng. Chúng tôi hy vọng chuyên đề này sẽ góp phần giúp các em khắc phục được những lỗi trong lối học truyền thống mà cải thiện cho mình hướng học mới- hướng học tích cực lấy người học làm trung tâm.

Trong quá trình viết và vận dụng chuyên đề chắc chắn còn có những hạn chế và thiếu sót nhất định, nhóm GV Tiếng Anh trường THCS Tây Sơn chúng tôi rất mong sự góp ý của quý thầy cô giáo và các bạn đồng nghiệp để chuyên đề được hoàn thiện hơn. Rất chân thành cảm ơn!

Đại Sơn, ngày 19 tháng 11 năm 2018
NHÓM TIẾNG ANH

Download (DOC, 29KB)